QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, CHỦ TỊCH
HỒ CHÍ MINH
VỀ PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”
TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
Đại tá, PGS,
TS Nguyễn Hữu Lập*
Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là
nội dung quan trọng nhất của công tác chỉnh đốn Đảng, quyết định đến sự trong sạch,
vững mạnh của Đảng, đặc biệt trong điều kiện đảng cầm quyền. Bài viết khái
quát, luận giải, làm rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam về vấn đề này và đề xuất một số giải pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” ở đội ngũ sĩ quan cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay.
1. Quan niệm
về phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên
Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Theo biện chứng pháp thì cái gì cũng luôn luôn vận động, luôn luôn biến
hóa, luôn luôn cách mệnh và luôn luôn phát triển. Bao giờ cũng có cái sinh nở
ra và phát triển lên, cũng có cái chết đi và mục nát”[1]. Tuy nhiên, với tính
cách là chủ thể năng động, sáng tạo nhất của thế giới, con người nhận thức rõ
không chỉ về quy luật vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng khác, mà
còn nhận thức rõ về chính bản thân mình để không ngừng hoàn thiện bản thân theo
yêu cầu nhận thức và cải tạo thế giới. Theo đó, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
là khái niệm dùng để chỉ quá trình thay đổi theo chiều hướng tiêu cực, từ tốt thành xấu, từng bước phai nhạt mục tiêu, lý tưởng,
giảm sút niềm tin vào mục tiêu, con đường xã hội chủ nghĩa.
“Tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là quá trình diễn ra sự thay đổi về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và phẩm chất, nhân cách của cán bộ, đảng
viên từ người cách mạng thành người phản cách mạng. “Tự diễn biến” là quá trình
dẫn đến “tự chuyển hóa” và “tự chuyển hóa” là hệ quả tất yếu của “tự diễn biến”,
vấn đề này có nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân
chủ quan giữ vai trò quyết định.
“Tự diễn biến”
trong cán bộ, đảng viên biểu hiện ở sự suy giảm niềm tin vào tính đúng đắn, cách
mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và sự tất thắng của chủ nghĩa xã
hội; ngại khó khăn, gian khổ, so bì, tỵ nạnh; tìm mọi cách để lựa chọn công việc,
vị trí công tác; suy giảm trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ; nảy sinh tiêu cực,
tham nhũng từ nhỏ đến lớn; vi phạm các quy chế, quy định, nguyên tắc tổ chức,
sinh hoạt đảng từ ít nghiêm trọng đến ngày càng nghiêm trọng hơn; nói và làm
không theo nghị quyết của chi bộ, của Đảng; tự do, vô kỷ luật và cuối cùng là
chống đối, đi ngược lại với quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
“Tự chuyển
hóa” là khi người cán bộ, đảng viên đó không còn đủ phẩm chất, năng lực để đáp ứng
yêu cầu của chức trách, nhiệm vụ được giao. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có ảnh
hưởng rất tiêu cực đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và niềm tin của
nhân dân đối với Đảng. Do vậy, ngay từ năm 1947, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam
trở thành đảng cầm quyền được hai năm, Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” để phòng, chống
sự suy giảm ý chí, quyết tâm, phẩm chất, nhân cách người cách mạng của cán bộ,
đảng viên, đặc biệt là những đảng viên có chức, có quyền. Bên cạnh đó, cùng với
sự quan tâm sâu sắc đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là khi bước vào
thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều quan điểm chỉ đạo việc phòng, chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Theo đó,
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là toàn bộ các chủ trương, nhiệm vụ,
giải pháp được tiến hành đồng bộ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm cho cán bộ,
đảng viên luôn tuyệt đối trung thành, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng,
tiêu biểu về đạo đức cách mạng, tự giác tu dưỡng, rèn luyện để đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
2. Quan điểm
Hồ Chí Minh về phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng
viên
Sinh thời, Hồ
Chí Minh chưa dùng cụm từ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với cán bộ, đảng
viên, mà Người luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên phải luôn tu dưỡng, rèn luyện để
không ngừng tiến bộ và Người coi sự không tiến bộ cũng đồng nghĩa với “thoái bộ”.
Theo đó, có thể hiểu, thoái bộ đồng nghĩa với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Căn cứ vào tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu, biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, có thể khái quát các quan điểm của Người về phòng, chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” như sau:
Một là, về tính tất yếu, khách quan của
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên.
Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng
viên là yêu cầu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Với vai trò là
người sáng lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam - một nước thuộc địa, nửa phong kiến,
giai cấp nông dân chiếm đại đa số, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc những thuận lợi, khó
khăn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Một trong những khó khăn mang tính
đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời :đó là, một bộ phận không
nhỏ đảng viên xuất thân từ nông dân và các tầng lớp xã hội khác. Do đó, mặc dù
đã đứng trong hàng ngũ của Đảng nhưng họ còn
mang nặng ảnh hưởng bởi những đặc tính của giai cấp, tầng lớp xuất thân mà không
phù hợp với bản chất của giai cấp công nhân và với yêu cầu của đạo đức cách mạng.
Người chỉ rõ: “Nếu trong Đảng ta, một đảng mới từ trong xã hội cũ bước ra, nếu
nó hoàn toàn không có những người xấu, việc xấu như thế mới là kỳ quái chứ! Cố
nhiên nói thế không phải là để tự bào chữa”[2]. Vì vậy, Hồ Chí Minh
luôn đề cao công tác chỉnh đốn Đảng và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải không
ngừng tự tu dưỡng, rèn luyện để ngày càng tiến bộ. Người nhấn mạnh: “Muốn gột rửa sạch những vết tích xấu xa của xã hội
cũ, muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng,
tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thoái bộ,
là lạc hậu”[3].
Theo Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản ra đời để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động
đi đến thắng lợi cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đây là một
sự nghiệp lâu dài, khó khăn, gian khổ, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên tự đổi mới,
tự chỉnh đốn đến ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ và phù hợp với sự phát triển của
xã hội. Người giải thích: “Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công
việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà
lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình”[4]. Tuy nhiên, việc đổi
mới, chỉnh đốn Đảng xuất phát từ mỗi cán bộ, đảng viên và chất lượng, hiệu quả
của đổi mới, chỉnh đốn Đảng cũng biểu hiện ở phẩm chất, năng lực của mỗi cán bộ,
đảng viên. Do vậy, Theo Hồ Chí Minh, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong cán bộ, đảng viên vừa là mục tiêu, vừa là một nhiệm vụ, giải pháp và
là yêu cầu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Hai là, về nội
dung phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên.
Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng
viên, thực chất là ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là thế giới
quan dựa trên cơ sở đối lập quyền lợi cá nhân riêng lẻ với quyền lợi của
xã hội, đặt quyền lợi của cá nhân trên quyền lợi của tập thể. Nói cách khác,
chủ nghĩa cá nhân là những quan điểm, tư tưởng và hành vi tuyệt đối hóa hoặc đề
cao lợi ích cá nhân, chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi
ích chung của tập thể. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là một thứ
vi trùng độc, nó làm nảy sinh ở người cán bộ, đảng viên những suy nghĩ và hành
động tiêu cực, mà Người gọi đó là các căn bệnh như: tham lam; lười biếng; kiêu
ngạo; hiếu danh; thiếu kỷ luật; hẹp hòi; cục bộ địa phương; tự xưng ta đây là
anh hùng, lãnh tụ; hữu danh, vô thực; kéo bè, kéo
cánh; không nhìn xa, trông rộng, chỉ chăm chú
những việc tỷ mỉ; không chấp hành nguyên tắc sinh hoạt đảng, muốn sao làm vậy;
lười biếng; tỵ nạnh, xu nịnh, a dua…
Biểu hiện cụ thể mà những căn bệnh của
chủ nghĩa cá nhân gây ra với cán bộ, đảng viên đó là: chỉ lo vun vén lợi ích
riêng; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; ganh ghét, đố kỵ, không muốn
người khác hơn mình; háo danh, thích sùng bái; tham vọng quyền lực, địa vị;
chạy bằng cấp, chạy thành tích, chạy chức, chạy quyền; kén chọn chức danh, vị trí công tác;
lười tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí phấn đấu, thiếu gương mẫu; tự do, vô
kỷ luật, đùn đẩy, thoái thác nhiệm vụ; thiếu quyết đoán, sợ trách nhiệm, mang nặng
“tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn, trước mắt,
có lợi cho mình; che dấu khuyết điểm, sai phạm của đơn vị, báo cáo không trung
thực; tranh công, đổ lỗi; thiếu thành khẩn khi có khuyết điểm; tự cao, tự đại, lười
học tập nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hoang mang,
dao động, hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm, đường lối của Đảng; ngại va chạm, dĩ
hòa vi quý, tinh thần tự phê bình và phê bình thấp; đoàn kết xuôi chiều,
dân chủ hình thức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, nhận hối lộ hoặc để
người thân, lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi; cố ý làm trái các
quy định của Nhà nước; dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực; kê khai tài sản, thu nhập không trung thực; cục bộ, bè phái, lợi ích
nhóm để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước; tham gia, xúi giục, cưỡng ép, mua
chuộc người khác làm những việc trái quy định của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu
tín nhiệm cho cá nhân bằng cách không lành mạnh; độc đoán, gia trưởng, coi
thường tập thể; buông lỏng quản lý, chỉ huy, quan liêu, thiếu sâu sát cơ sở;
không cương quyết trong xử lý các sai phạm của cấp dưới; thờ ơ, vô cảm, thiếu
trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân; phai
nhạt lý tưởng cách mạng, nói và làm không theo nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái; vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và các quy chế, quy
định của cấp ủy, tổ chức đảng, của cơ quan, đơn vị; phản bội lại lý tưởng khi không
được thỏa mãn mục đích riêng của mình.
Chủ nghĩa cá nhân có
tác hại vô cùng to lớn, nó cản trở sự tiến bộ của mỗi cán bộ, đảng viên, nó là nguyên nhân của những tiêu cực và sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Do vậy, theo Hồ Chí Minh, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
cán bộ, đảng viên chính là ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân.
Ba là, về hình thức, biện pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên.
Qua nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy rằng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chính
là hình thức của phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng
viên. Bởi vì, theo Người, mục tiêu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; không ngừng củng cố, tăng cường
mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; đội ngũ cán bộ, đảng viên tiêu biểu về phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ; trung thành, tận
tụy với công việc, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và Nhân dân lên trên
lợi ích cá nhân, luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng triết lý hành động của
người cán bộ, đảng viên là “việc gì có lợi cho
dân thì hết sức làm, việc gì có hại đến dân thì hết sức tránh”. Theo đó, cần
chú trọng một số hình thức chủ yếu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đó là:
thường xuyên làm tốt công tác phát triển đảng viên mới, tăng cường công tác bảo
vệ chính trị nội bộ, kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và thực hiện nghiêm
việc nhận xét, đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên hàng năm.
Về biện pháp
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên theo quan
điểm Hồ Chí Minh, cần sử dụng tổng hợp các biện pháp tác động vào đội ngũ cán bộ,
đảng viên, trong đó, biện pháp chủ yếu nhất là thực hiện có hiệu quả chế độ tự
phê bình và phê bình. Theo Hồ Chí Minh, “tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí
sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm
mạnh. Nhờ nó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, tiến
bộ không ngừng”[5].
3. Quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về phòng, chống “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng
viên
Cụm từ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lần đầu tiên
được đề cập tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Văn kiện Đại hội
Đảng XI đã chỉ rõ: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp”. Thực tiễn cho thấy “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là vấn đề có nguyên nhân từ những hạn
chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, từ những tác động tiêu cực của mặt
trái nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; từ âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực thù địch; từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trước
những biến động phức tạp trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Với nhận
thức trên tại Đại hội XII, Đảng ta nêu rõ quan điểm: “Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy
lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn,
đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”[6]. Đến Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đánh giá, “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai
nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”[7]. Như vậy có thể
thấy, việc phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên phải có tính chủ động cao. Phòng, chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh phòng, chống âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Quan điểm của Đảng ta về phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cần
được các tổ chức, các lực lượng, ở các cấp, các ngành quán triệt, cụ thể hóa và
tổ chức thực hiện trong thực tế gắn với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi quyền hạn,
góp phần phòng, chống có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ,
đảng viên hiện nay.
4. Giải pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” ở đội ngũ sĩ quan cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Đội ngũ cán bộ quân đội có vai trò quyết định đến sức mạnh chiến đấu và kết
quả hoàn thành nhiệm vụ ở mỗi cơ quan, đơn vị và toàn quân, trong đó đội ngũ sĩ
quan cấp phân đội có vai trò quan trọng. Do vậy, trong sự nghiệp xây dựng quân
đội, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng đội ngũ cán bộ. Theo
đó, cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 03-NQ/HNTW tại Hội nghị Trung ương lần
thứ ba khóa VIII, ngày 18/6/1997, về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Kết luận số 37-KL/TW của Hội nghị trung ương
lần thứ chín khóa X, ngày 02/02/2009, về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược
cán bộ đến năm 2020; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các
cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Trên cơ sở các
quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ, cần quán triệt,
thực hiện tốt Nghị quyết số 769-NQ/QUTW, ngày 21/12/2012 của Quân ủy Trung ương,
Về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội giai đoạn 2013 - 2020; Quy định số 842-QĐ/QU,
ngày 06/8/2018, về Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ trong
Quân đội nhân dân Việt Nam; Nghị quyết số 109-NQ/QUTW, ngày 11/02/2019, Về xây
dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, nhất là cấp chiến dịch, chiến lược đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới; Nghị quyết số 847/NQ/QUTW, ngày 28/12/2021, về
phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong
tình hình mới.
Trong xây dựng
đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp phân đội, cần chú
ý toàn diện cả số lượng, phẩm chất, năng lực. Kết hợp chặt chẽ giữa trang bị kiến
thức, rèn luyện kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ với đấu tranh phòng, chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” thông qua việc thực hiện có hiệu quả các nội dung,
nhiệm vụ, giải pháp của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”./.
* Chủ nhiệm khoa Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
6, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 280.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
5, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 303.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
11, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 602.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
12, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 333.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
9, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 521.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 201.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021,
tr. 92.
Nhận xét
Đăng nhận xét